CẦN TUYỂN BẾP CHẢO/PHỤ BẾP/PHỤC VỤ/ TẠP VỤ! Liên hệ: c Quỳnh 0906090699 Do nhu cầu mở rộng kinh doanh, Hải sản Kyla Đà Lạt - 21 Trần Bình Trọng và 3 Trần Hưng Đạo cần tuyển gấp những vị trí sau: BẾP CHẢO: 4 người - Kinh nghiệm nấu ít nhất 2-3 năm - Chuyên về các món hải sản, cơm gia đình... - Làm trong mội trường nhà hàng quán ăn quy mô trung bình trở lên Ca full time (từ 9h sáng đến 10h30 tối) - Lương: 7,000,000 khởi điểm Ca 7 tiếng sáng ( từ 9h sáng đến 16h00) - Lương 4,000,000 khởi... CẦN TUYỂN BẾP CHẢO/PHỤ BẾP/PHỤC VỤ/ TẠP VỤ! Xem chi tiết tại link gốc...
chuyển nhà thành hưng hà nội Theo bạn, thế nào là một công việc tốt? Có lẽ là một công việc tiền nhiều, việc ít, gần nhà, ổn định. Nhưng vẫn có một ngoại lệ, đó là M., một người bạn của tôi, ngay từ khi mới bắt đầu đi làm, M. luôn tránh những công việc có được mức lương cố định. M. nói, lương cố định khiến anh ấy không có ý chí phấn đấu, nhưng anh lại muốn xem năng lực của bản thân rốt cuộc đến đâu, cuối cùng đã tìm đến một công ty môi giới nhà đất làm việc. Công việc của M. rất vất vả: gần như không có ngày nghỉ, tăng ca đến muộn là chuyện bình thường, hàng ngày tất bật khắp nơi đưa khách đi xem nhà, không ngừng gọi điện thoại để tư vấn, có những hôm đưa 10 khách đi xem phòng nhưng lại không có lần nào thành công. Có những lần bận rộn liên tục nửa tháng trời, cuối cùng chỉ nhận lại được 1 câu: “Cậu vất vả rồi, tôi muốn suy nghĩ thêm” … [left !important] [/left !important]Nhưng M. vẫn kiên trì công việc này trong suốt 2 năm rồi cuối cùng, sự nghiệp cũng có khởi sắc, số giao dịch thành công ngày càng nhiều, M. cũng được thăng chức lên làm quản lý, hiện tại mức lương lên tới trăm vạn tệ và đang có ý định ra ngoài khởi nghiệp. Còn những người có mức lương cố định như chúng ta đều đang dùng thời gian để đổi lấy tiền bạc, chỉ trực tới cuối tháng để được phát lương. Người nghèo thường có khuynh hướng tìm một công việc và mức lương ổn định, bởi họ cần “cảm giác an toàn”, mà cái cảm giác an toàn đó cũng có giá phải trả, cái giá đó là sự giàu có. 2. Người giàu khen ngợi người khác, người nghèo ghen tị với người giàu “Ghen tị với người giàu” thực sự là một suy nghĩ thâm căn cố đế của người nghèo. Nếu một người luôn không vừa mắt với người khác, luôn giữ tâm lý "tôi hạnh phúc nếu tôi thấy bạn không tốt", thì sợ rằng bạn sẽ phải nghèo cả đời. Người nghèo luôn phàn nàn về sự bất công, nhưng không nghĩ rằng nghèo đói có thể là kết quả của sự lựa chọn của chính họ. Khi bạn gặp một người giàu có, nếu bạn chọn ghét họ, thì bạn sẽ không bao giờ có thể trở nên giàu có được, bởi nếu bạn thực sự giàu có, bạn sẽ trở thành đối tượng ghen ghét của chính mình. Đúng là xuất phát điểm của mỗi người là không giống nhau, nhưng nếu cuộc sống đã như vậy rồi thì thay vì suốt ngày đi đố kị, ghen ghét, tại sao bạn không lựa chọn đi học hỏi? Hầu hết những người kiếm được nhiều tiền đều là những người ham học hỏi, họ học hỏi những thứ có ích với mình từ người khác để từ đó nâng cao giá trị của bản thân. Những người hay phàn nàn và ghen tị với người giàu về cơ bản sẽ càng làm càng nghèo. 3. Người giàu sống đến già, học đến già, người nghèo lúc nào cũng cho rằng mình biết hết rồi Mỗi tuần, Bill Gates đọc hết 1 cuốn sách và thói quen này đã tồn tại được 52 năm, nhiều trong số đó là những cuốn sách không liên quan đến phần mềm hay kinh doanh. Thậm chí, ông còn có một kỳ nghỉ kéo dài hai tuần mỗi năm chỉ để dành cho việc đọc sách. Không chỉ riêng Bill Gates, nếu quan sát những người sáng lập của các công ty hàng đầu thế giới, bạn sẽ thấy một đặc điểm chung ở họ, đó là những người theo đuổi tri thức suốt đời. Mặt khác, tôi tự hỏi có bao nhiêu người chưa bao giờ động vào một cuốn sách từ sau khi tốt nghiệp đại học? Một bài báo trên Tạp chí Harvard Business Review từng chỉ ra rằng kiến thức thu được trong quãng thời gian học đại học chỉ có thể dùng được 5 năm. Có thể thấy, người nghèo vì sao trở thành người nghèo đều có lý do cả.
Theo tôi kiếm tiền từ việc xem Video thì đăng ký tại link sau: http://win102.io/register/4874424258 Mọi chi tiết vui lòng LH Mr Khánh 0327172222
chuyển nhà thành hưng hà nội 40 năm trước, tôi chỉ là cô bé 7 tuổi, người bé tẹo nhưng những ký ức cùng cha mẹ và anh chị trong gia đình đi chạy giặc và những ngày cùng chị gái bị lạc trong rừng không thể nào quên được”, chị Lê Thị Bay mở đầu câu chuyện với PV Dân Việt. Tháng 2.1979, khi quân xâm lược Trung Quốc tràn sâu vào tỉnh Cao Bằng, cũng như những người dân cùng xóm, gia đình ông Lê Văn Tiệu (bố chị Bẩy và Bay) cùng chạy vào xã Bình Dương, huyện Hòa An, Cao Bằng để tìm đường xuyên ra quốc lộ 3 về hướng Bắc Kạn. Tối hôm đó sau khi ngớt tiếng súng, gia đình ông Tiệu và một số gia đình khác tìm đến một lán trên rẫy của người dân địa phương để trú chân. Một số gia đình có đèn dầu mang theo nhưng không ai dám thắp vì sợ có ánh sáng quân Trung Quốc sẽ ập đến. Giữa không gian yên ắng đó bỗng trong đoàn có người làm rơi chiếc vung nồi kêu loảng xoảng. Mọi người phát hoảng lo là giặc đến nên chạy tứ tung. Bố dắt tôi và chị Bẩy chạy, còn mẹ và các anh chị chạy hướng khác”, chị Bay kể. Trời tối, bố con chị Bay dắt díu nhau vừa chạy vừa tìm đường, mấy lần định xuống đường dân sinh nhưng nghe tiếng quân Trung Quốc gọi nhau í ới lại phải chạy tiếp. Qua một đêm và một ngày không tìm người thân, quen nào, sẩm tối hôm đó khi đến khu rừng ở Tài Hồ Sìn ông Tiệu đưa hai cô con gái nằm ở gốc cây, lấy lá chuối khô che lên người hai con rồi dặn: Con nằm yên ở đây, bố đi tìm đường lát quay lại đón. Ra tìm đường, ông Tiệu bị dân quân xã nghi ngờ là gián điệp cho quân Trung Quân nên giữ lại. Dù ông giải thích, van xin còn hai con nhỏ đang nằm ở bìa rừng nhưng không ai tin. Ông bị giữ hết đêm, đến hôm sau nhờ nói tên người quen và được họ đến bảo lãnh ông mới được thả. Quay trở về nơi hai con gái nằm ông bàng hoàng khi chúng không còn ở đó. Chạy tìm khắp xung quanh nhưng không thấy bóng dáng con đâu. Mẹ cạn hết nước mắt “Sáng hôm sau hai chị em ngủ dậy không thấy bố đâu nên chạy đi tìm và bắt đầu bị lạc. Chị dắt em men theo suối vừa đi vừa gọi bố, giữa rừng vắng thỉnh thoảng tiếng pháo giặc nổ xé rừng, chim bay dáo dác. Hai chị em sợ quá chạy ngã dúi dụi”, chị Bay cho biết. Những ngày còn ở nhà hai đứa trẻ Bẩy 9 tuổi, Bay 7 tuổi vẫn được bố mẹ xào lõi chuối cho ăn, nhờ thế những ngày đầu bị lạc họ cũng biết tìm đến những cây chuối bị đổ trong rừng để tước vỏ lấy lõi về ăn sống, rồi ăn quả chuối rừng. Một tối cô bé Bay mang quả chuối rừng hái được hồi chiều ra ăn, nhưng chuối chưa chín, chát không ăn được nên cô bé bỏ vào túi áo rồi nằm thiếp đi. Quả chuối vô tình được ủ hơi nóng từ người nên sáng hôm sau chín hơn và ăn không bị chát. “Từ đó mình có thêm kinh nghiệm, mỗi tối khi đi ngủ lại ủ hai quả chuối rừng vào người để chín sáng ra có cái ăn”, chị Bay nhớ lại. Khoảng thời gian bị lạc trong rừng, ban ngày hai chị em dắt nhau đi tìm bố mẹ, đến tối tìm bãi đất trống rồi lấy lá cây làm chiếu, phủ lên chân. Hai chị em cởi áo bông và áo len vẫn mặc làm chăn đắp. Ngày qua ngày, hai chị em càng đi tìm càng bị lạc xa hơn, người cứ lả dần đi vì đói khát. “Có lần đói quá hai chị em bò vào rẫy để mót sắn. Trông thấy củ sắn nhỏ bằng đầu ngón chân cái hai chị em dùng cây hì hụi bới mãi nhưng củ sắn chỉ nhô ra chưa được 10cm. Hai chị em chụm lại cùng nhổ nhưng vì không còn sức nên bị ngã ngửa rồi lăn xuống chân đồi. Lúc lồm cồm bò dậy, giây phút hồn nhiên của tuổi thơ ùa về nên hai chị em đã cười, nhưng vì tiếng cười yếu ớt nghe như tiếng thở dài. Trời tối, chị em lại bảo nhau tìm chỗ ngủ để sáng mai đào tiếp, nhưng sáng ra củ sắn vừa nhô lên đó bị con dúi ăn hết”, chị Bay kể. Thời gian đó cô bé Bay đang ở tuổi thay răng, những lúc đào được khoai, sắn trên rẫy chị Bẩy phải nhá đút cho em. Trong những ngày hai chị em ngủ trong rừng, một đêm trời mưa rất to kéo dài hết đêm. Hai chị em dắt nhau tới một gốc cây to đứng ôm nhau khóc tới sáng. Ở nơi xa, mẹ của hai bé bà Lê Thị Đoa cũng cạn hết nước mắt. Trong những ngày đó gia đình cô bé Bẩy – Bay tổ chức đi tìm kiếm khắp nơi, họ băng qua bao cánh rừng, khe suối nhưng không có kết quả. Có lúc nghe người dân địa phương bảo đêm nghe tiếng khóc của trẻ em khu này, khu kia, nhưng khi người nhà hai bé đến nơi lại chỉ tiếng có dấu chân mà không thấy bóng người. “Càng ngày hai chị em càng mệt lả, tai ù, mắt nhìn chỉ thấy mờ mờ. Có những lúc nghe thấy tiếng người ở gần nhưng sợ là quân Trung Quốc nên không dám ra”, chị Bay nói. Một buổi sáng tháng 3.1979, khi mặt trời lên cao, những tia nắng rọi qua các tán lá rừng, hai cô bé Bẩy – Bay dìu nhau ra phía bờ suối. Họ bỗng nghe thấy tiếng gọi “Bẩy – Bay ơi”. Cô bé Bay lúc này còn tỉnh táo hơn chị nên đã nói “hình như có tiếng gọi mình”. Hai chị em ngồi thụp xuống bên một lùm cây. Tiếng gọi “Bẩy – Bay” mỗi lúc một gần. Cô bé Bẩy dồn sức cố u lên một tiếng. Theo tiếng thưa yếu ớt, ông Lê Văn Tiệu và người con gái lớn gạt những vạt cây tìm tới. Hai người vỡ òa khi thấy cô bé Bẩy – Bay đang co ro trong lùm cây. Tính tới hôm đó, hai bé Bẩy – Bay đã trải qua đúng 23 ngày lạc cha, mẹ, người thân. Ông Nông Thanh Quế, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Cao Bằng (ảnh rể của hai chị Bẩy - Bay) nhớ lại: Sau ngày hai người được đưa về nhà, cô bé Bẩy bị ảnh hưởng nên hằng ngày cứ im lặng, ngồi đâu ngồi đó, phải mất một thời gian sau mới trở lại bình thường. Còn cô bé Bay dù sức khỏe chưa phục hồi nhưng vẫn cố chống gậy bước ra khi hàng xóm, người quen của gia đình khắp nơi đến thăm hỏi. Có người còn chạy tới ôm bé, sờ tay, chân để xem có phải đúng thật là người đã trở về trong câu chuyện cổ tích.